Viện Dinh dưỡng quốc gia (Bộ Y tế) vừa tổ chức hội nghị về vận động, đầu tư và tăng cường phối hợp liên ngành cho hoạt động của Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2021 – 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Thông tin tại hội nghị, PGS.TS Trương Tuyết Mai, Phó Viện trưởng Viện Dinh dưỡng quốc gia cho biết, những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ trong việc cải thiện tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe toàn dân nhưng vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Cụ thể, dù tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em giảm mạnh những năm qua nhưng vẫn còn chênh lệch vùng miền, nhất là tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi; tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng ở phụ nữ có thai, trẻ dưới 5 tuổi và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ còn ở mức cao. Mặt khác, còn nhiều yếu tố nguy cơ làm gia tăng tình trạng rối loạn chuyển hóa, nguy cơ mắc bệnh mạn tính không lây có liên quan đến dinh dưỡng như: tiêu thụ ít rau, lối sống tĩnh tại ít vận động, tiêu thụ nhiều loại thức ăn nhanh, thức ăn chứa nhiều đường tự do, nhiều muối….
Theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc và Ngân hàng Thế giới, chỉ cần đầu tư 1USD chi phí dinh dưỡng cho trẻ trong 1.000 ngày đầu đời thì tương lai sẽ thu lại được 18USD; trẻ em được điều trị khỏi thấp còi có khả năng thoát khỏi đói nghèo lên tới 33% khi trưởng thành, góp phần tăng trưởng GDP quốc gia từ 3 – 10%. Do đó, để thực hiện thành công các chỉ tiêu, mục tiêu của Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng đến năm 2030 một cách bền vững, các quốc gia cần tiếp tục huy động các cấp, ngành, tổ chức quốc tế, xã hội và người dân để đầu tư về cả chính sách, nguồn lực nhằm thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp cho dinh dưỡng.
Thực hiện Chiến lược quốc gia về dinh dưỡng giai đoạn 2021 – 2030
Tại hội nghị, các đại biểu đã thảo luận, nhất trí một số đề xuất, kiến nghị tới Chính phủ, các Bộ, ban, ngành liên quan, tổ chức quốc tế, lãnh đạo các cấp và toàn xã hội về việc cùng chung tay quan tâm tăng cường đầu tư và đẩy mạnh công tác phối hợp liên ngành cho hoạt động triển khai Chiến lược quốc gia dinh dưỡng trong giai đoạn tới.
Theo đó, cần xây dựng, thực thi hiệu quả chính sách dinh dưỡng (như: đưa dinh dưỡng vào luật phòng bệnh, được chi trả bảo hiểm y tế…); tiếp tục thực hiện có hiệu quả các giải pháp giảm sự chênh lệch vùng miền, dân tộc về tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở trẻ dưới 5 tuổi; cải thiện tình trạng thiếu vi chất dinh dưỡng (tình trạng thiếu kẽm, thiếu máu) ở phụ nữ có thai, trẻ dưới 5 tuổi và phụ nữ tuổi sinh đẻ.
Tập trung kiểm soát tình trạng thừa cân béo phì ở trẻ 5 – 19 tuổi và người trưởng thành ở thành phố, thành thị; kiểm soát tốt tình trạng rối loạn chuyển hóa, giảm nguy cơ mắc bệnh mạn tính không lây liên quan đến dinh dưỡng; đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ về dinh dưỡng, thực phẩm phù hợp cho người Việt Nam; xây dựng kế hoạch ứng phó dinh dưỡng khẩn cấp để thích ứng với tình trạng biến đổi khí hậu, môi trường. Ngoài ra, cần tăng cường phối hợp liên ngành cho hoạt động dinh dưỡng từ Trung ương đến tỉnh, huyện, xã; có cơ chế huy động, sử dụng nguồn lực, lồng ghép giữa Trung ương, địa phương, quốc tế, doanh nghiệp và tư nhân… chủ động hội nhập, hợp tác quốc tế về dinh dưỡng, giải quyết các vấn đề dinh dưỡng mang tính toàn cầu cũng như khu vực.
Theo Tạp chí Năng lượng sạch Việt Nam